Sinh thái đô thị đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ về mặt cảnh quan hay khí hậu – môi trường mà còn là một đòn bẩy với xung lực đáng kể nhằm nâng cao chất lượng sống cho cư dân. Trong bối cảnh đô thị hóa ngày nay, sinh thái hóa là một nhiệm vụ cấp bách, với những ích lợi to lớn để hoàn trả cho đô thị và không gian sinh sống của con người những khoảng thiên nhiên cần thiết cùng nhiều giá trị sinh thái cơ bản đã bị lấy đi bằng cách này hay cách khác, ở mức độ thấp hoặc mức độ cao.
Sinh thái hóa đô thị cần được thể hiện rõ nét và trước hết trong các không gian công cộng (KGCC), nơi tập trung đông người với nhiều hoạt động minh chứng cho sức sống của đô thị, do đó cần được thiết lập hoặc tái thiết kế xứng tầm với vai trò là “bộ mặt của đô thị”. Quá trình sinh thái hóa KGCC bắt đầu bằng việc xanh hóa các khoảng trống chưa được phủ xanh hoặc đã được phủ xanh nhưng không thích hợp hoặc không hiệu quả. Khi quá trình xanh hóa là bước 1 của đa dạng sinh học hoàn tất, thực vật thuộc nhiều chủng loại được trồng thành các tầng lớp xen kẽ nhau và nếu sinh trưởng tốt thì sẽ tạo lập môi trường sống thuận lợi, thu hút một số loài động vật đến cư trú, đồng nghĩa với bước 2 của đa dạng sinh học sẽ đạt được. Cả thiết kế mới trên quan điểm sinh thái học lẫn sinh thái hóa trở lại sẽ khiến KGCC của đô thị trở thành những “kho dự trữ tài nguyên sinh vật” tiềm năng, đưa thiên nhiên gần hơn nữa với con người.
Khi cây xanh và mặt nước là hai thành tố cơ bản tạo lập cảnh quan đô thị được phối hợp với nhau thì sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn trong cuộc sống, bao gồm: 1. Sức khỏe cá nhân tốt hơn trên hai phương diện sinh học và tâm lý học khi tiếp xúc thường xuyên với thiên nhiên hàng ngày, 2. Cảnh quan trở nên hấp dẫn hơn khi có nhiều yếu tố góp phần và được bố trí theo các giải pháp khác nhau, thay đổi theo từng vị trí, 3. Môi trường sống được cải thiện đáng kể khi tổ hợp cây xanh và mặt nước có tác dụng cộng hưởng, hạ nền nhiệt độ khu vực hiệu quả gấp đôi so với từng yếu tố riêng lẻ, 4. Tốc độ tiêu thoát nước mưa nhanh hơn và khả năng trữ nước mưa cũng cao hơn, giảm thiểu nguy cơ úng ngập, và hơn hết là 5. Tăng cường tính đa dạng sinh học, khi các sinh vật trên cạn và sinh vật dưới nước cùng tồn tại cạnh nhau, có quan hệ cộng sinh hoặc loại trừ nhau theo quy luật cân bằng trong thiên nhiên, tạo thành một quần xã sinh vật thực sự phong phú ngay trong lòng đô thị.
Một số gợi ý về giải pháp sinh thái hóa không gian công cộng trong đô thị:
Để đảm bảo chắc chắn năm lợi ích nêu trên, quá trình sinh thái hóa (xanh hóa) đô thị được khuyến nghị áp dụng cho cả hai trường hợp KGCC trong và ngoài khu ở, được tổng kết từ thành công của một số dự án thực tiễn trên thế giới, theo Alessandro Ossola & Jari Niemelä (2018), Kirsten M. Parris (2016), Hiroyaki Suzuki và cộng sự (2010):
Từ quy mô nhỏ đến quy mô trung bình trước khi đạt được trên quy mô lớn
Đối với khu ở: Sinh thái hóa – xanh hóa từ không gian bán công cộng (nhóm nhà ở) đến KGCC (toàn khu ở).
Ngoài khu ở: Quá trình sinh thái hóa đi từ cấp khu vực (phường – xã) qua cấp trung gian (quận – huyện) lên cấp cao nhất (toàn thành phố).
Theo từng mảng nhỏ
Sinh thái hóa – xanh hóa KGCC các không gian trống dạng xen kẹt còn lại, các mảng xanh của từng hộ gia đình – liên hộ hoặc nội bộ cơ quan – trụ sở – đơn vị đóng trên địa bàn, liên kết dần với các mảng xanh trung bình đã có (vườn hoa, công viên) bằng các tuyến cây xanh đường phố, gắn tiếp với các mảng xanh lớn hơn (công viên, rừng cây, hành lang xanh, vùng chuyên canh cây trồng, khu du lịch nghỉ dưỡng, khu bảo tồn thiên nhiên, v.v.), tạo thành mạng lưới liên hoàn và rộng khắp.
Diện tích mặt nước
Nếu có sẵn và điều kiện cho phép, cần liên kết bằng cách nối thông các hồ nhỏ với nhau, hồ nhỏ với hồ lớn bằng kênh dẫn nước, các hồ lớn với nhau, hồ lớn với sông chính bằng sông đào (nếu không có sẵn sông tự nhiên).
Những diện tích mặt nước như sông, hồ, kênh, v.v., nếu muốn để bờ tự nhiên, không có kè và rào chắn, cần tính toán độ sâu của mặt nước trong khoảng 10m từ bờ trở ra, chỉ sâu 50 – 60cm để đảm bảo an toàn, trẻ nhỏ nếu trượt chân ngã cũng không bị đuối nước.
Cảnh quan cạn và cảnh quan ngập nước
Những khu vực không thuận lợi cho việc xây dựng (hành lang dọc đường cao tốc, khu đệm cách ly quanh các cơ sở sản xuất công nghiệp, khu vực có nền đất yếu, khu vực trũng thấp dễ bị ngập lụt, v.v.) theo kinh nghiệm quốc tế có thể được tận dụng, chuyển hóa thành những chuỗi cảnh quan cạn, cảnh quan ngập nước xen kẽ và thông ra sông hoặc ra hồ lớn.
Một số khu thuần túy cảnh quan – sinh thái này hoàn toàn có thể được khai thác như không gian công cộng, như một dạng công viên, nếu có một cạnh tiếp xúc hoặc nằm trong khoảng cách đi bộ 400m từ nhà ở.
Cây xanh và mặt nước
Với các KGCC quy mô từ trung bình trở lên, diện tích cho phép để kết hợp cây xanh và mặt nước theo phương ngang với một tỷ lệ thích hợp. Trong trường hợp diện tích hạn chế, sự kết hợp này có thể được chuyển sang thực hiện theo chiều đứng, với các mảng xanh bám theo diện tường, bên cạnh các màn nước chảy chậm nhiều tầng bậc từ trên cao xuống một bể cảnh nhỏ ở dưới chân thác rồi lại được bơm ngược lên đỉnh và cứ thế luân chuyển nhiều lần;
Trồng các loại cây thành nhiều tầng (trên/dưới), nhiều lớp (trong/ngoài), đan xen nhiều loại (có sẵn/mới), ưu tiên các loài bản địa và có thể chọn một số loài thực vật nhập khẩu được các nhà sinh vật học xác nhận không phải là loài xâm lấn gây hại ngoại lai;
Canh tác đô thị
Tích hợp canh tác đô thị vào nội dung sinh thái hóa KGCC. Tận dụng những khu đất trống, các khoảng sân xung quanh và sân thượng của các tòa chung cư để làm vườn cộng đồng, bên cạnh các vườn riêng của từng hộ gia đình trong những biệt thự hoặc nhà liền kề. Các loại cây nên trồng không chỉ làm cảnh, mà còn đem lại hiệu quả kinh tế như cung cấp rau củ quả là thực phẩm hàng ngày, hoăc thân rễ lá là nguyên liệu đầu vào của quá trình bào chế thuốc nam và/hoặc một số loại biệt dược;
Xác định loài cây chủ đạo và không nên lặp lại ở cự ly gần để tạo nét nhận diện cho từng khu vực. Những cây khác loại được trồng phối hợp thì không đặt ra yêu cầu hạn chế về số lượng loài hay số lần lặp lại, miễn là phù hợp với cây chủ đạo cả về mặt sinh học (không kỵ nhau hoặc cạnh tranh loại trừ nhau) lẫn về mặt thẩm mỹ (không tạo sự tương phản quá mức). Các cây được chọn cần được các nhà sinh vật học tham vấn cho ý kiến, không chứa chất độc và cũng không hấp dẫn côn trùng có hại như ruồi muỗi, rết, bọ xít, v.v. hoặc động vật nguy hiểm đối với con người;
Vật liệu có khả năng thấm hút nước
Thay thế các bề mặt không có khả năng thấm hút nước (bê tông, nhựa đường, gach nung) bằng vật liệu có khả năng thấm hút nước (đất trồng cỏ, gạch tự chèn dạng đục lỗ nhồi đất trồng cỏ) để tạo điều kiện bổ sung nước ngầm, không làm gián đoạn chu trình nước trong tự nhiên, v.v.
Một ví dụ tiêu biểu cho xu hướng sinh thái hóa KGCC trong đô thị là công viên trung tâm khu dân cư Tanner Spring ở TP Portland, tiểu bang Oregon tại Hoa Kỳ, được đưa vào sử dụng từ năm 2005. Thay vì chỉ thiết kế một công viên cạn như các khu ở lân cận, đơn vị tư vấn quy hoạch đã quyết định kiến tạo một khu dự trữ sinh quyển đúng nghĩa ngay trong khu dân cư, có một phần diện tích là hồ sinh học để thu gom nước mưa chảy tràn trên bề mặt và nước xám đã qua xử lý kỹ thuật từ các cụm nhà gần đó. Đây là không gian nghỉ ngơi thư giãn ngoài trời được ưa thích của cư dân. Các bậc phụ huynh coi đây là bảo tàng mở về sinh thái, dạy cho con em họ những bài học vỡ lòng sinh động về đa dạng sinh học, thiên nhiên tươi đẹp và ý thức giữ gìn môi trường, tình yêu thiên nhiên và bảo vệ hệ sinh thái trước khi đến trường, và trải nghiệm thực tiễn sau khi học trên sách vở.
Công viên dù không lớn (3.600 m2) vẫn được chia thành ba vùng rõ ràng: Vùng 1 ngoài một số cây bóng mát cỡ vừa và nhỏ chủ yếu trồng thảm thực vật là cây bụi, trong khi đó vùng 2 được xác định là phần chuyển tiếp giữa cảnh quan trên cạn và cảnh quan dưới nước, ưu tiên trồng cỏ và các loại lau sậy, còn vùng số 3 là khu ngập nước hoàn toàn, nơi thả rong, tảo, hoa súng và một số loài thực vật thủy sinh khác có khả năng làm sạch nước bằng cách hấp thụ các chất hữu cơ và vô cơ hòa tan. Khi những loài thực vật này hấp thụ tối đa các chất có trong nước, chúng sẽ được vớt bỏ từng phần và một lượt cây mới thay thế được thả vào, chu trình lọc nước lại tiếp diễn. Thống kê gần nhất ghi nhận có tới 72 loài thực vật đã hiện diện trong công viên (Managing Habitat, 2021). Sự đa dạng của các loài thực vật và mật độ trồng cây được tính toán hợp lý cung cấp môi trường sống thuận lợi cho một số loài động vật nhỏ như chim sâu, giun đất, chuồn chuồn, bướm, bọ rùa, nhện nước, cá vàng, ếch, v.v. có nghĩa là đủ đại diện của cả ba nhóm động vật trên cạn, dưới nước và lưỡng cư. Khả năng tiếp cận của người dân để quan sát các loài động thực vật được tối đa hóa bằng những đường dạo uốn lượn xuyên qua các bãi cỏ và cây bụi, các phiến đá kê trên mặt nước và các bậc ngồi nghỉ trên hai triền dốc dọc theo hai cạnh của công viên.
Về người trình bày:
Tài liệu tham khảo
1. Bo Yang, Ming-Han Li and Shujuan Li (2013), Design with Nature for Multi-functional Landscapes: Environmental Benefits and Social Barriers in Community Development, International Journal of Environmental Research and Public Health, No. 10, pp. 5433-5458
2. Nirmal Kishnani (2019), Ecopuncture – Transforming Architecture and Urbanism in Asia, BCI Asia Construction Information Pte. Ltd, Singapore, p. 84
3. Alessandro Ossola & Jari Niemelä (2018), Urban Biodiversity – from Research to Practice, Routledge, London & New York, pp. 187-197, 205-213
4. Kirsten M. Parris (2016), Ecology of Urban Environment, Wiley & Blackwell, New Jersey, pp. 177-192
5. Hiroyaki Suzuki, Arish Dastur, Sebastian Moffatt, Nanae Yabuki & Hinako Maruyama (2010), Eco2 Cities – Ecological Cities as Economic Cities, World Bank, Washington DC, pp. 175, 188, 197
6. Trang web Managing Habitat – Friends of Tanner Spring: http://friendsoftannersprings.org/park-design/park-meta/
7. Trang web Land8: https://land8.com/tanner-springs-park-an-oasis-in-the-middle-of-the-city/
ー Construction+ Online
Tin liên quan: Tổng quan về vật liệu tre và gạch ở Việt Nam